Tội giết người đi tù mấy năm?
Mục lục
Tội giết người xâm phạm tính mạng, sức khỏe của công dân, pháp luật ở Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều có quy định nghiêm ngặt để bảo vệ tính mạng sức khỏe của người dân. Hành vi giết người sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, cùng chúng tôi tìm hiểu tội giết người đi tù mấy năm?
1. Quy định về tội giết người
Theo như quy định tại Điều 123, Bộ luật hình sự năm 2015: không mô tả thế nào là tội giết người mà chỉ đưa ra các khung hình phạt, ví dụ: như tại điểm b khoản 1 điều 123 giết người dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm tù chung thân hoặc tử hình… Đối với mỗi bị cáo thì có các tình tiết nhân thân khác nhau, do vậy điều luật chỉ quy định các tình tiết định khung, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra bản án với mức án cụ thể.
Cũng theo quy định tại Điều 123, Bộ luật hình sự năm 2015, có thể hiểu mặt khách quan của tội giết người như sau:
- Hành vi khách quan của tội giết người có thể là các hành động dùng vũ lực để khống chế nạn nhân như giữ chặt, bóp cổ, bịt miệng,..hoặc là sử dụng vũ khí như dao, kéo để đâm chém, súng bắn nạn nhân…
- Hành vi khác đó là không hành động, có thể hiểu là khi đó chủ thể phải hành động để cứu nạn nhân nhưng chủ thể đó đã không làm như vậy;
- Hành vi giết người còn diễn ra trong trường hợp là đối tượng lợi dụng người không có năng lực trách nhiệm hình sự;
- Các hành vi tước đoạt tính mạng con người nêu trên, phải là hành vi trái pháp luật, và được thực hiện do cố ý.
Cấu thành tội giết người
Về mặt khách quan: Người phạm tội có hành vi làm chết người khác bằng các hình thức hành động hoặc không hành động, dùng vũ lực hoặc không dùng vũ lực, có hoặc không sử dụng vũ khí, hung khí. Hậu quả của hành vi này là chấm dứt sự sống của người khác.
Về khách thể: Người phạm tội giết người xâm phạm đến tính mạng của người khác.
Về mặt chủ quan: Tội giết người đòi hỏi người phạm tội với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp.
Về mặt chủ thể: Cũng giống như những loại tội phạm khác, người phạm tội phải là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Tội giết người đi tù mấy năm?
Hình phạt cụ thể của tội Giết người được quy định tại điều Điều 123 Bộ luật hình sự với mức hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
“Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội phạm giết người nguy hiểm cho xã hội nhưng Bộ Luật Hình sự 2015 còn có quy định những tội giết người nhưng sẽ không bị tử hình như:
– Tội giết con mới đẻ.
– Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
– Tội giết người do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
Hiện nay việc xác định hình phạt cụ thể còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình thực tế, bằng chứng của cơ quan điều tra và quyết định của Tòa án trong từng trường hợp cụ thể.