Hướng dẫn xử lý tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý
Mục lục
Hiện nay việc sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng phổ biến và trở nên tinh vi, một trong những điều làm tội phạm ma túy trở nên khó sa lưới đó chính là việc tổ chức sử dụng ma túy một cách bày bản. Vậy tội tổ chức sử dụng ma túy bị xử lý ra sao? Cùng chúng tôi tìm hiểu hướng dẫn xử lý tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong bài viết hôm nay.
1. Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là gì?
Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cụ thể như sau:
“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;
d) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
đ) Đối với người đang cai nghiện;
e) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
g) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
h) Tái phạm nguy hiểm.
………”
Cấu thành tội phạm của tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
– Chủ thể:
Người phạm tội bị truy cứu tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy khi đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi là từ đủ 16 tuổi trở lên.
– Hành vi khách quan:
Theo quy định tại Mục 6 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP thì: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:
– Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
– Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy.
– Người bị truy tố đồng phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy khi thực hiện một trong các hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác:
- Đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
- Cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy;
- Chuẩn bị chất ma túy nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
- Chuẩn bị địa điểm bao gồm thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
- Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
- Tìm người sử dụng chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ.
Khi xác định hành vi khách quan cần làm rõ:
- Hành vi “Chỉ huy, phân công, điều hành” việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: Hành vi này thường bị nhầm lẫn với phạm tội có tổ chức. Điều tra viên cần xác định rõ việc chỉ huy, phân công, điều hành diễn ra như thế nào và nó khác gì với phạm tội có tổ chức, cần xác định rõ ai giúp sức, ai chủ mưu và ai là người thụ hưởng;
- Hành vi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể “người khác”: chất ma túy có thể được dùng trong các trường hợp nghiên cứu, phân tích khoa học, kiểm nghiệm hoặc để chữa bệnh, ngoài những trường hợp trên thì việc sử dụng ma túy đều là trái phép. Đôi lúc người chỉ huy phân công, điều hành cũng có thể là người sử dụng trái phép chất ma túy.
– Yếu tố lỗi:
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Khi xác định được yếu tố lỗi thì mới có thể truy tố được tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
2. Hướng dẫn xử lý tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý?
– Khung hình phạt thấp nhất là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
– Trường hợp có thêm các tình tiết tăng nặng:
+ Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu thuộc khoản 2 Điều 197.
+ Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197.
+ Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân nếu rơi vào trường hợp khoản 4 Điều 197.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Khi bị bắt về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà thu được một lượng lớn chất ma túy thì có thể xử lý như sau:
- Nếu khối lượng ma tuý thu giữ của các bị can đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự và các bị can đều khai số ma tuý đó tiếp tục để sử dụng ngay tại địa điểm đó thì chỉ bị xử lý về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
- Nếu các bị can khai số ma túy đó để lần sau sử dụng hoặc mang đi nơi khác sử dụng thì xử lý về 2 tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- 2. Những bất cập trong hướng dẫn thi hành tội tổ chức sử dụng ma túy
- Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 có quy định tại điểm a tiểu mục 6.2 mục 6 phần II:
- “Người nghiện ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Như vậy có thể thấy khi phát hiện nhóm người nghiện ma túy đang sử dụng ma túy thì không đương nhiên người cung cấp chất ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà tùy từng trường hợp có thể truy cứu tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Công văn số 5442/VKSTC-V14 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại tiểu mục 16.2 mục 16 phần 1 có quy định:
- “… người nghiện ma tuý có hành vi cung cấp chất ma tuý cho người nghiện ma tuý khác sử dụng tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
- Tuy nhiên tại Công văn số 02/TANDTC-PC về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy lại quy định không cần biết người cung cấp ma túy có nghiện hay không, chỉ cần có hành vi cung cấp chất ma túy thì sẽ bị truy cứu tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Vậy yếu tố nhân thân có phải là yếu tố xác định có tội phạm hay không? Điểm này vẫn còn nhiều mâu thuẫn.
- Hình phạt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: Khung hình phạt thấp nhất là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
– Trường hợp có thêm các tình tiết tăng nặng:
- Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu thuộc khoản 2 Điều 197.
- Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197.
- Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân nếu rơi vào trường hợp khoản 4 Điều 197.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
3. Những bất cập trong hướng dẫn thi hành tội tổ chức sử dụng ma túy
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 có quy định tại điểm a tiểu mục 6.2 mục 6 phần II:
“Người nghiện ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội sử dụng trái phép chất ma túy”.
Như vậy có thể thấy khi phát hiện nhóm người nghiện ma túy đang sử dụng ma túy thì không đương nhiên người cung cấp chất ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà tùy từng trường hợp có thể truy cứu tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Công văn số 5442/VKSTC-V14 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại tiểu mục 16.2 mục 16 phần 1 có quy định:
“… người nghiện ma tuý có hành vi cung cấp chất ma tuý cho người nghiện ma tuý khác sử dụng tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Tuy nhiên tại Công văn số 02/TANDTC-PC về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy lại quy định không cần biết người cung cấp ma túy có nghiện hay không, chỉ cần có hành vi cung cấp chất ma túy thì sẽ bị truy cứu tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Vậy yếu tố nhân thân có phải là yếu tố xác định có tội phạm hay không? Điểm này vẫn còn nhiều mâu thuẫn.