Những trường hợp bị can, bị cáo bắt buộc phải có luật sư bào chữa.
Mục lục
Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa. Trong quá trình tố tụng bị can, bị cáo có quyền thuê luật sư bào chữa hoặc tự bào chữa cho chính mình. Có những trường hợp bị cáo, bị can không thuê người bào chữa, tuy nhiên pháp luật bắt buộc họ bắt buộc phải có luật sư bào chữa vì mục đích nhân đạo.
1. Quy định của pháp luật hình sự về Người bào chữa – luật sư bào chữa.
Người bào chữa được hiểu là người được “người bị buộc tội” nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Người bào chữa tham gia với tư cách tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội theo quy định tại Điều 72 BLTTHS 2015.
Người bào chữa theo quy định của pháp luật có thể là: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Thủ tục đăng ký bào chữa
Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa. Người bào chữa khi tham gia bào chữa phải xuất trình các giấy tờ như Thẻ luật sư đối với Luật sư, Thẻ trợ giúp viên pháp lý đối với trợ giúp viên pháp lý và các bằng chứng chứng minh có liên quan.
Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
Theo quy định tại Điều 74 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Nhằm đảm bảo quyền tự do cá nhân, tự do thân thể được bảo vệ tốt nhất và sớm nhất khi họ trở thành người bị buộc tội. Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định người bào chữa không chỉ tham gia bào chữa từ khi khởi tố bị can mà còn tham gia từ trước khi khởi tố vụ án, thời điểm bắt đầu tham gia bào chữa, thời điểm sớm nhất là khi bị bắt, tạm giữ người (khi chưa khởi tố vụ án).
Vì vậy mà trong quá trình tố tụng, người bị buộc tội có thể thực hiện quyền được bào chữa bất cứ tại thời điểm nào hoặc giai đoạn nào để người bào chữa giúp họ bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Những trường hợp bị can, bị cáo bắt buộc phải có luật sư bào chữa
Theo quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:
a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;
b) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;
c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
Trong trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 trên đây, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản ghi nhận việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Luật sư được chỉ định bào chữa chỉ được từ chối bào chữa khi chứng minh được bản thân rơi vào hai trường hợp:
- Vì lý do bất khả kháng;
- Do trở ngại khách quan.
Hành vi từ chối bào chữa mà không thuộc một trong hai lý do trên là hành vi bị cấm theo Luật Luật sư. Và khi có căn cứ từ chối thì Luật sư bào chữa phải có văn bản thông báo đến người được bào chữa.