Thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Một trong những đối tượng có thể làm người bào chữa là Luật sư. Nhằm tạo thuận lợi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa cũng đã được pháp luật quy định cụ thể.
Căn cứ vào Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, luật sư bào chữa sẽ được quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Theo đó, sau khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can (nếu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can thì phải được Viện kiểm sát phê chuẩn). Kể từ thời điểm khởi tố bị can, luật sư sẽ được quyền tham gia tố tụng.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Như vậy, đối với một số trường hợp thì thời điểm tham gia tố tụng của luật sư có thể sớm hơn, ngay cả khi chưa khởi tố bị can như trường hợp bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp; phạm tội quả tang; người phạm tội tự thú…
Ngoài ra, trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia bao gồm các tội như: tội phản bội Tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tội gián điệp… Do đó, trường hợp khởi tố, điều tra về các tội này thì theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát, thời điểm luật sư bào chữa được quyền tham gia tố tụng có thể sau thời điểm khởi tố bị can.
Với tư cách là luật sư bào chữa, việc tham gia tố tụng của luật sư trong các giai đoạn tố tụng vào những thời điểm hợp lý sẽ giúp đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị buộc tội, đang đối mặt với khả năng phải chịu hình phạt nghiêm khắc của pháp luật. Đồng thời, các quy định này đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc giúp luật sư thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.