Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam và cách xác định
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999. Tuy nhiên, không phải tất cả những người thực hiện hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, để xác định một người có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không cần phải căn cứ vào việc người đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa?
Điều 12 – Bộ luật Hình sự 2015 và Khoản 1 Điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 số 12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Theo như quy định trên có thể thấy rằng, chỉ những người từ đủ 14 tuổi trở lên khi thực hiện hành vi phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một người sẽ tính theo tuổi tròn căn cứ vào ngày tháng năm sinh của người đó.
Ví dụ: Nếu một người sinh vào ngày 21/09/2003 thì thời điểm người đó đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là ngày 21/09/2017.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tố tụng, xảy ra rất nhiều trường hợp các cơ quan chức năng mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không thể xác định chính xác ngày tháng năm sinh của người thực hiện hành vi phạm tội. Điều này dẫn đến thực trạng, không thể xác định được người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa.
Để giải quyết khó khăn trên, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 quy định các nguyên tắc chung để xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
a- Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
b- Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
c- Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
d- Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Như vậy, từ những quy định trên có thể thấy, một người tuy thực hiện hành vi phạm tội nhưng nếu người đó chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi đã thực hiện. Hay nói cách khác, Điều 12 Bộ Luật Hình Sự 2015 là một điều luật được quy định nhằm xác định phạm vi đối tượng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hình sự.