Kẻ giết người bị ”điên” thì xử lý như thế nào?
Mục lục
Nhiều vụ trọng án do người tâm thần gây ra trong thời gian qua khiến dư luận không khỏi bàng hoàng, lo lắng. Trong khoản thời gian gần đây, tại tỉnh Vĩnh Phúc xảy ra thảm án gia đình khiến 2 người chết, 1 người trọng thương. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là nếu người “điên” giết người thì pháp luật có chế tài gì để xử lý họ? Và những kẻ giết người này có chịu hình phạt như những cá nhân khác hay không? Làm thế nào để trả lại công bằng cho người đã chết? Bài viết hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu vấn đề này.
1. Trách nhiệm hình sự của người bị “điên”
“Điên” là cách gọi dân dã chỉ những người bị bệnh tâm thần mà thần trí của họ không tỉnh táo được như người bình thường.
Những người bị bệnh tâm thần không phải lúc nào cũng mất hết khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Có những căn bệnh gây ra tình trạng mất nhận thức trong một khoản thời gian ngắn. Vì vậy, để không bỏ lọt tội phạm, pháp luật hình sự chia ra rất nhiều trường hợp chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ Luật hình sự 2015 như sau:
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì không phải chịu TNHS đối với hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì vấn đề TNHS vẫn được đặt ra;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác mà vẫn có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì người đó vẫn chịu TNHS bình thường đối với hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện.
Do đó, người bị mắc bệnh tâm thần vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện khi họ vẫn còn khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
2. Kẻ giết người nhưng bị “điên” chịu những chế tài gì?
Như đã phân tích ở trên trong quá trình giám định tâm thần, nếu người phạm tội giết người rơi vào trường hợp mất hoàn toàn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì không phải chịu TNHS đối với hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện.
Nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi toà kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 2 Điều 49 BLHS 2015).
Đối với trường hợp bị bệnh tâm thần nhưng chỉ bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì vẫn bị áp dụng hình phạt đối với tội giết người nhưng có thể được giảm nhẹ một phần do bệnh lý tác động, ảnh hưởng tới hành vi phạm tội.
Hình phạt cụ thể của tội Giết người được quy định tại điều Điều 123 Bộ luật hình sự với mức hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
“Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”