Đánh người có tổ chức bị xử lý như thế nào?
Mục lục
Đánh người có tổ chức là một trong những hình thức tội ác đáng lên án trong xã hội hiện nay. Những vụ đánh người có tổ chức thường gây ra những thương tích, tật nguyền, thậm chí là tử vong cho nạn nhân, gây ra sự hoang mang, lo sợ và bất an cho cộng đồng. Liệu rằng đánh người có tổ chức có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Cùng chúng tôi làm rõ vấn đề trên qua nội dung bài viết dưới đây nhé!
1. Đánh người có tổ chức là gì?
Đánh người có tổ chức là hành động tấn công và sử dụng vũ khí để gây thương tích, tật nguyền hoặc tử vong cho một hay nhiều đối tượng nhằm đạt mục đích cụ thể. Thường thì đánh người có tổ chức được thực hiện bởi một nhóm người có kế hoạch và sử dụng các phương tiện, vật dụng hoặc vũ khí để thực hiện hành vi tấn công.
Các nhóm tội phạm thường lợi dụng vấn nạn đánh người có tổ chức để bóc lột tài sản của nạn nhân, đe dọa và kiểm soát người dân trong khu vực, gây ra tình trạng kinh tế xã hội suy thoái, ảnh hưởng đến an ninh và trật tự công cộng.
Như vậy, đánh người có tổ chức là một hình thức tội ác đáng lên án trong xã hội. Nó gây ra sự hoang mang, lo sợ và bất an cho cộng đồng, khiến cho mọi người phải sống trong tình trạng lo lắng về an ninh và trật tự. Việc giải quyết vấn nạn đánh người có tổ chức là rất quan trọng để bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, đồng thời bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của cộng đồng.
2. Đánh người có tổ chức bị xử phạt như thế nào?
Theo điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì người thực hiện hành vi cố ý gây thương /tích dưới mức chịu trách nhiệm hình sự (tỉ lệ thương tích dưới 11%, không thuộc một trong các trường hợp đặc biệt) bị phạt hành chính từ 02 – 03 triệu đồng.
Đồng thời, có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.
3. Đánh người có tổ chức bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Đánh người có tổ chức là một hành vi vi phạm pháp luật và bị coi là một hình thức tội ác nghiêm trọng. Vì vậy, những người thực hiện hành vi đánh người có tổ chức có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, những người cùng tham gia đánh hội đồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
h) Có tổ chức;i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.
4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
6. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Như vậy, mức phạt cơ bản với người phạm tội này là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Với các khung hình phạt tăng nặng, người phạm tội còn có thể bị phạt tù đến 20 năm hoặc thậm chí là tù chung thân.