Sử dụng trái phép chất ma túy có bị đi tù không?
Hiện nay, tệ nạn ma túy đang ngày càng phức tạp, gây ra những hệ lụy khôn lường cho xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Ngoài các tội như: mua bán ma túy, tàng trữ ma túy,…. thì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy có phải là hành vi phạm tội theo quy định của Bộ Luật hình sự hay không luôn là câu hỏi của rất nhiều người. Bài viết hôm nay chúng ta cập nhật cho các bạn những vấn đề pháp lý xung quanh việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Mục lục
1. Sử dụng trái phép chất ma túy có bị truy tố không?
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự thì các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy bị truy cứu trách nhiệm hình sự hiện nay không bao gồm hành vi sử dụng ma túy trái phép. Vì vậy có thể thấy hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không được xem là phạm tội và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vẫn bị xử lý hành chính theo quy định của Chính phủ.
Căn cứ theo khoản 1 và 2 Nghị định số 167/2013/NĐ – CP về việc vi phạm các quy định về phòng, chống và kiểm soát ma túy:
- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt chất ma túy trái phép; Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; Sản xuất, mua, bán những dụng cụ sử dụng chất ma túy trái quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Luật phòng chống ma túy 2000 (sửa đổi 2008):
– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
– Việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thời hạn cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm.
Như vậy, người nào có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy sẽ bị phạt hành chính mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người sử dụng ma túy sẽ bị phạt tiền 500.000 – 1.000.000 đồng. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đồng thời người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chứa chấp, … được quy định tại chương XX Bộ luật Hình sự hiện hành thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội phạm mà pháp luật có quy định.
2. Hành vi lôi kéo dụ dỗ người khác sử dụng ma túy

Theo điều 258, Bộ luật hình sự 2017 quy định về tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy như sau:
“1. Người nào rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Vì vậy hành vi dụ dỗ rủ rê người khác sử dụng ma túy được coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của mình.
Đối với tội lôi kéo sử dụng trái phép chất ma túy, có các dấu hiệu sau đây:
– Có hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục người khác sử dụng trái phép chất ma túy để họ tự nguyện sử dụng trái phép chất ma túy.
– Có hành vi dùng các thủ đoạn khác nhằm tác động đến người khác để họ tự động sử dụng ma túy.
Vì vậy dấu hiệu khách quan của tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy là việc rủ rê, dụ dỗ, nếu không có những hành vi trên mà đơn thuần chỉ là mua ma túy dùm thì tùy theo từng trường hợp có thể bị truy tố tội vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tội phạm thực hiện với lỗi cố ý.
Khung hình phạt cho tội này mở rộng rất nhiều khung hình phạt và nhiều tình tiết tăng nặng. Khung hình phạt từ 1 năm đến tù chung thân. Hình phạt bổ sung là phạt tiền tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội các tội nêu trên còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng.