Chiếm đoạt tài sản của người chết là gì? Nghĩa vụ tài sản của người đã chết
Trong các vấn đề về thừa kế và tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản của người chết luôn là một vấn đề pháp lý đặc biệt nhạy cảm và phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về luật pháp. Đồng thời, việc xử lý nghĩa vụ tài sản của người đã chết cũng đặt ra nhiều câu hỏi cho những người có liên quan. Bài viết này sẽ làm rõ bản chất của hành vi chiếm đoạt, đồng thời phân tích chi tiết các quy định về nghĩa vụ tài sản mà người đã khuất để lại theo pháp luật hiện hành.
1. Chiếm đoạt tài sản của người chết là gì?
Theo pháp luật dân sự và hình sự Việt Nam hiện hành, chiếm đoạt tài sản của người đã chết không được định danh là một tội danh độc lập trong Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, hành vi này có thể cấu thành tội phạm nếu có yếu tố gian dối, lén lút hoặc cố ý chiếm giữ tài sản trái pháp luật. Nói cách khác, đây là hành vi của một cá nhân tự ý lấy, sử dụng, chuyển dịch hoặc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã mất mà không có căn cứ hợp pháp, không được sự đồng ý của người có quyền thừa kế hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý di sản.
Một số hành vi điển hình thường bị xem là chiếm đoạt tài sản của người chết bao gồm:
- Tự ý lấy hoặc sử dụng tài sản trong thời gian người đã chết chưa được xác lập người quản lý di sản;
- Lợi dụng sơ hở để bán, chuyển nhượng, cầm cố tài sản thừa kế mà không có quyền hợp pháp;
- Giả mạo di chúc, giấy tờ tùy thân để kê khai tài sản thừa kế;
- Không kê khai di sản, cố tình che giấu tài sản để phục vụ mục đích chiếm đoạt.
Những hành vi trên có thể bị xem xét xử lý hình sự, dân sự hoặc hành chính tùy theo bản chất, mức độ nghiêm trọng và hậu quả thực tế của hành vi.


Mặc dù không có điều luật cụ thể với tên gọi “chiếm đoạt tài sản của người chết”, nhưng các quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) vẫn có thể áp dụng để xử lý:
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), nếu lén lút lấy tài sản từ nơi cất giữ sau khi người chết qua đời;
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), nếu sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thừa kế;
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175), nếu người đang quản lý di sản có hành vi chiếm giữ tài sản không đúng pháp luật;
- Tội xâm phạm mồ mả, hài cốt (Điều 319), nếu chiếm đoạt vật tùy táng hoặc tài sản gắn với phần mộ của người chết.
Trong quan hệ dân sự, hành vi này còn có thể dẫn đến tranh chấp thừa kế, yêu cầu hoàn trả tài sản hoặc yêu cầu tuyên vô hiệu giao dịch dân sự nếu tài sản bị chuyển nhượng trái luật.
Xem thêm: Chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn xử phạt như thế nào?
2. Nghĩa vụ tài sản của người đã chết
Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì người thừa kế phải có nghĩa vụ thực hiện bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp có di chúc nhưng không hợp pháp thì người phải thực hiện nghĩa vụ không phải là người thừa kế theo di chúc mà là người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nếu họ được hưởng di sản vì họ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ “trong phạm vi di sản”.
Vậy, trường hợp người chết không có di sản nhưng có nghĩa vụ và có người thừa kế thì người thừa kế có phải thừa kế nghĩa vụ hay không? Vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản sẽ không phát sinh vì họ không hưởng di sản và cũng không có di sản để thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
Điều 614 BLDS năm 2015 quy định về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế như sau: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
Điều 615 BLDS 2015 có quy định về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
– Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
– Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.


Đồng thời, theo quy định tại Điều 658 BLDS năm 2015, nghĩa vụ tài sản và thứ tự thanh toán như sau:
- Chi phí mai táng hợp lý theo tập quán;
- Khoản cấp dưỡng chưa hoàn tất;
- Chi phí bảo quản di sản;
- Trợ cấp cho người sống phụ thuộc;
- Tiền công lao động;
- Khoản bồi thường thiệt hại;
- Nghĩa vụ thuế và các khoản nộp ngân sách;
- Các khoản nợ với cá nhân hoặc pháp nhân;
- Tiền phạt (nếu có);
- Các khoản chi phí khác liên quan.
Như vậy, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo quy định tại Điều 620 của BLDS 2015 thì người thừa kế không được quyền từ chối nhận di sản trong trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
3. Tư vấn pháp lý tại Văn phòng luật sư tố tụng
Tại Văn phòng luật sư tố tụng, chúng tôi hiểu rằng, Khách hàng tìm đến luật sư không chỉ cần câu trả lời đúng luật, mà còn mong muốn một giải pháp thực tiễn, khả thi và tối ưu. Vì vậy, dịch vụ tư vấn pháp lý tại Văn phòng luật sư tố tụng luôn đặt trọng tâm vào việc hiểu rõ bản chất vụ việc, đánh giá rủi ro pháp lý và đề xuất hướng xử lý cụ thể. Mỗi nội dung tư vấn đều được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc và kinh nghiệm thực tiễn từ hàng trăm hồ sơ chúng tôi từng tham gia.
Dù bạn là cá nhân đang gặp khó khăn về quyền thừa kế, tranh chấp đất đai, hay doanh nghiệp cần tư vấn về hợp đồng, lao động, đầu tư…, chúng tôi đều có gói tư vấn phù hợp, từ trực tiếp tại văn phòng, qua điện thoại đến tư vấn trực tuyến. Văn phòng luật sư tố tụng cam kết luôn lắng nghe, tận tâm và đồng hành pháp lý cùng Khách hàng trên mọi chặng đường.