Đánh người không gây thương tích thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Mục lục
Đánh người hay còn được gọi là cố ý gây thương tích là một tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 và hành vi phải bị chịu chế tài từ pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp phạm tội sử dụng vũ lực nhưng không để lại thương tật (tỉ lệ tổn thương cơ thể 0%). Đây còn được coi là hành vi đánh người không gây thương tích. Vậy trong trường hợp này, hành vi đánh người không gây thương tích có bị chịu sự trừng trị của pháp luật không?
1. Cố ý gây thương tích là gì?
Hiện nay chưa có một văn bản luật nào quy định định nghĩa về hành vi cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, có thể hiểu cố ý gây thương tích là hành vi cố ý tạo ra sự tổn thương, chấn thương hoặc đau đớn với người khác bằng biện pháp sử dụng vũ lực hoặc hành động bạo lực.
2. Tội đánh người không gây thương tích có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định về các khung hình phạt cho từng trường hợp do tội cố ý gây thương tích gây ra dựa trên các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng, tỷ lệ tổn thương cơ thể, hậu quả và yếu tố tăng nặng.
Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích nhưng kết quả lại không để lại thương tật thì sẽ căn cứ vào khoản 1 và điểm c,d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 để xác định như sau:
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
- Có tổ chức;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
- Có tính chất côn đồ;
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Tái phạm nguy hiểm.
Như vậy trong trường hợp đối tượng thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích nhưng không để lại thương tích nếu xét thấy hành vi có yếu tố nghiêm trọng thì vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù tỉ lệ tổn thương cơ thể là 0% nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì người có hành vi phạm tội vẫn sẽ bị khởi tố vụ án hình sự.
Còn những trường hợp còn lại sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Phạt hành chính cho hành vi đánh người không gây thương tích
Nếu hành vi đánh người không gây thương tích vẫn chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự thì hành vi có thể bị xử phạt hành chính phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng theo điểm a khoản 5 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP cho hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.