Di sản thừa kế là gì?
Di sản thừa kế đó là tài sản để lại, là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống. Di sản thừa kế được thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. Di sản thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi họ còn sống. Di sản thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015, di sản thừa kế gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế của người đã chết theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tại Điều 613 BLDS 2015 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã hình thành thai trước khi người để lại di sản chết, là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Hình thức di chúc: Có hai hình thức để lại di chúc đó là di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Di chúc phải lập bằng văn bản nhưng trong một số trường hợp có thể lập di chúc miệng. Và di chúc miệng chỉ được công nhận là hợp pháp trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản, sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, sáng suốt, minh mẫn thì di chúc miệng mặc nhiên bị hũy bỏ (Điều 629).
Về thời hiệu thừa kế: Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc về người chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục, công khai theo quy định của Bộ luật này về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có người chiếm hữu hoặc được lợi về tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự thì di sản thuộc về Nhà nước.
– Thời hiệu để người hưởng thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
– Thời hiệu yêu cầu người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ khi mở thừa kế.
Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ dịch chuyển tài sản của người đó sang cho những người hưởng thừa kế, được Nhà nước thừa nhận và bảo đảm thực hiện.