Tội sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm trật tự quản lí kinh tế
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lần đầu tiên được quy định tại BLHS năm 1985, sau đó tiếp tục được quy định trong BLHS 1999 và đến BLHS 2015 vẫn giữ nguyên tên gọi. Bài viết dưới đây sẽ tổng hợp đầy đủ và ngắn gọn những quy định của pháp luật về tội danh này.
Căn cứ pháp lí: Theo Điều 192 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194 và 195 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng…”
Theo đó, sản xuất hàng giả, được hiểu là hành vi làm (tạo) ra những sản phẩm, hàng hoá có nhãn hàng hoá, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, gây nhầm lẫn hoặc để lừa dối khách hàng hoặc làm ra những sản phẩm hàng hoá giả chất lượng hoặc công dụng.
Buôn bán hàng giả, được hiểu là hành vi mua hàng biết rõ là hàng giả với giá rất rẻ và dùng các thủ đoạn gian dối để bán cho khách hàng với giá của hàng thật.
Các dấu hiệu cơ bản của tội phạm
Chủ thể: là người có đầy đủ năng lực chịu trách hình sự và đạt độ tuổi luật định. Theo khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 liệt kê về những tội phạm mà người từ đủ 14 tuối đến chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS thì không có tội phạm này nên người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả chỉ phải chịu TNHS khi họ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt khách quan: Người phạm tội này có hai hành vi khác nhau đó là buôn bán hàng giả và sản xuất hàng giả. Hậu quả trực tiếp của hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả là xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Đối với tội phạm này hậu quả là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm.
Khách thể tội phạm: Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến chính sách quản lý thị trường của nhà nước đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp cúa người sản xuất (hàng thật) và của người tiêu dùng.
Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, người phạm tội biết hành vi của mình là trái pháp luật, có thể gây ra hậu quả rất nghiêm trọng nhưng vẫn thực hiện với mục đích là vụ lợi.
Hình phạt: Tùy thuộc vào mức độ vi phạm cũng như hậu quả xảy ra mà người phạm tội có thể bị với các khung lần lượt là từ 100 triệu đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; phạt tù từ 5 năm đến 10 năm; phạt tù từ 7 năm đến 15 năm; ngoài ra có thể bị phạt bổ sung từ 20 triệu đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,…
Ngoài ra đối với pháp nhân cũng có quy định và khung hình phạt riêng theo khoản 5 Điều 192.