Mặt khách quan của tội giết người theo BLHS 2015
Song song với nền kinh tế phát triển, xã hội còn tồn tại những mặt trái của nó, đó là các tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm nói chung trong đó có đối tượng phạm tội giết người ngày một gia tăng, với số lượng lớn, nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt đã gây nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm mất trật tự xã hội.
Giết người là việc tước đoạt tính mạng con người một cách trái pháp luật. Tội giết người được quy định tại Điều 123, Bộ luật hình sự năm 2015:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm”
Theo như quy định tại điều luật trên thì nhà làm luật không mô tả thế nào là tội giết người mà chỉ đưa ra các khung hình phạt, ví dụ: như tại điểm b khoản 1 điều 123 giết người dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm tù chung thân hoặc tử hình.. Đối với mỗi bị cáo thì có các tình tiết nhân thân khác nhau, do vậy điều luật chỉ quy định các tình tiết định khung, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra bản án với mức án cụ thể.
Cũng theo quy định tại Điều luật trên, có thể hiểu mặt khách quan của tội giết người như sau:
+ Hành vi khách quan của tội giết người có thể là các hành động dùng vũ lực để khống chế nạn nhân như giữ chặt, bóp cổ, bịt miệng,..hoặc là sử dụng vũ khí như dao, kéo để đâm chém, súng bắn nạn nhân…
+Hành vi khác đó là không hành động, có thể hiểu là khi đó chủ thể phải hành động để cứu nạn nhân nhưng chủ thể đó đã không làm như vậy .Ví dụ như A khi thấy một người đang sắp chết đuối, A biết bơi nhưng A không cứu B.
+Hành vi giết người còn diễn ra trong trường hợp là đối tượng lợi dụng người không có năng lực trách nhiệm hình sự ví dụ: M lợi dụng N bị bệnh tâm thần (có xác nhận của trung tâm giám định pháp y) giết K. Trong trường hợp này thì M chính là người thực hành và phạm tội giết người.
+ Các hành vi tước đoạt tính mạng con người nêu trên, phải là hành vi trái pháp luật, và được thực hiện do cố ý.
Sống trong xã hội phát triển và văn minh như hiện nay thì tính mạng con người cần được bảo đảm. Do vậy cần hoàn thiện pháp luật , đặc biệt là BLHS để giảm tội phạm phạm tội giết người, góp phần xây dựng một xã hội ổn định.