Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy
Mục lục
Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm mang tính giúp sức, tạo điều kiện thuận lợi để các tội phạm về ma túy gia tăng ngày càng lớn. Vì vậy xét về mức độ nguy hiểm thì tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy cũng là tội gây nguy hiểm cho xã hội.
1. Cấu thành tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy
Mặt khách quan của tội phạm:
– Có hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy:
- Có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy: Là trường hợp người có địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc do mình quản lý, biết người khác là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, tuy không cho họ thuê, mượn địa điểm, nhưng lại có hành vi để mặc cho họ hai lần sử dụng trái phép chất ma túy trở lên hoặc để mặc cho nhiều người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Việc đưa chất ma túy vào cơ thể được xem là trái phép khi nó không có sự cho phép của cơ quan nhà nước, bằng các hình như tiêm, hút, chích….
– Những trường hợp cần lưu ý khi xem xét tội danh chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy:
- Người có địa điểm cho người khác mượn hoặc thuê địa điểm mà biết là họ dùng địa điểm đó không phải để họ sử dụng chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy, mà dùng địa điểm đó để đưa chất ma túy trái phép vào cơ thể người khác, thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định của Bộ luật Hình sự;
- Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người nào có đầy đủ các yếu tố cấu thành Tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định của Bộ luật Hình sự;
- Người nào bán trái phép chất ma túy của người khác và còn cho họ sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình để họ sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy.
Khách thể
Hành vi phạm tội xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gián tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác.
Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là người nào có năng lực hình sự.
2. Bất cập trong việc thực thi
So với quy định tại Điều 198 Bộ luật hình sự 1999 thì Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 256 Bộ luật Hình sự hiện hành đã có những sửa đổi, bổ sung như sau: Bổ sung tình tiết định khung hình phạt như phạm tội 02 lần trở lên, đối với 02 người trở lên, đối với người dưới 16 tuổi.
Khái niệm chất ma túy không được quy định cụ thể trong bất cứ văn bản nào. Những quy định trong các văn bản như: Luật phòng chống ma túy, Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP đều không nêu cụ thể chất ma túy là gì. Trong tình hình các sản phẩm từ ma túy, chất ma túy ngày càng đa dạng gây khó khăn trong hoạt động điều tra, truy bắt và định tội danh cho tội phạm.
– Có nhiều cách hiểu khác nhau cho quy định tại Điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS năm 2015: ”
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với người dưới 16 tuổi;
d) Đối với 02 người trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội đối với 02 người trở lên được hiểu như sau: Hành vi chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy có bị hại, và bị hại trong tội danh này là 02 người trở lên thì bị xử phạt 07 năm đến 15 năm tù. Tuy nhiên, không thể xem đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy là bị hại trong trường hợp này. Họ có thể bị truy tố các tội danh khác nếu đủ yếu tố định tội như: Tội tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy, Mua bán trái phép chất ma túy….
Cần có những quy định thống nhất cách hiểu về điều luật này.