Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Mục lục
Các chế định liên quan đến người phạm tội dưới 18 tuổi được quy định rõ ràng ở Phần chung – Chương XII Bộ luật hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với đối tượng này cần được cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ truy cứu khi cần thiết với hình phạt nhẹ hơn so với thông thường.
1. Thế nào là người phạm tội dưới 18 tuổi?
Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; Các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan…
Trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 không quy định cụ thể người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng theo điều 0 Bộ luật quy định người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ khi là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, việc áp dụng các hình phạt không mang tính chất trừng trị độc ác hay tước đi quyền sống, quyền tự do nhằm tạo điều kiện để họ làm lại cuộc đời. Nếu người dưới 18 tuổi phạm tội họ phải chịu trách nhiệm hình sự thì khi cơ quan có thẩm quyền xét xử cần tuân thủ theo những nguyên tắc sau đây:
2.1 Xử phạt nhằm mục đích giáo dục
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2.2 Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
+ Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
2.3 Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự khi cần thiết
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
2.4 Không xử phạt chung thân, tử hình
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
2.5 Chỉ phạt tù khi cần thiết
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
2.6 Án đã tuyên không tính để xác định tái phạm
Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
3. Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Vậy đối với mỗi người dưới 18 tuổi phạm tội, họ sẽ chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt được quy định đối với mỗi tội phạm họ phạm phải.
3.1 Cảnh cáo
Đây có thể nói là hình phạt nhiều nhất đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.2 Phạt tiền
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. (Điều 99 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3.3 Cải tạo không giam giữ
Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. ((Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3.4 Tù có thời hạn
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:
– Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.(điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Các quy định đối với người phạm tội dưới 18 tuổi thể hiện tính nhân đạo của nhà nước, pháp luật đối với đối tượng này. Nhằm giúp họ có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng, làm lại cuộc đời. Điều này cũng phù hợp với pháp luật bảo vệ trẻ em mà Việt Nam đang áp dụng.