Phạm tội lần đầu được xác định như thế nào?
Mục lục
Phạm tội lần đầu là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được pháp luật quy định. Tuy không được định nghĩa chi tiết tại Bộ Luật Hình sự hiện hành, tuy nhiên thông qua các trường hợp xét xử cụ thể, Tòa án nhân dân Tối cao đã có các văn bản hướng dẫn, điều chỉnh về việc áp dụng tình tiết này; thông qua đó thống nhất cách áp dụng khi quá trình tố tụng vụ án.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa được định nghĩa cụ thể tại Bộ Luật Hình sự hiện hành. Có thể hiểu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những sự việc, chi tiết, hành vi nhỏ nào đó đã xảy ra mang ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội từ hành vi phạm tội gây ra; hoặc thể hiện thái độ, khả năng cải tạo, sửa chữa lỗi lầm của người phạm tội; thông qua tình tiết này, người phạm tội có thể được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho tội phạm mà mình đã thực hiện.
Phạm tội lần đầu không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự duy nhất; ngoài tình tiết này có một số tình tiết giảm nhẹ khác được pháp luật quy định, liệt kê cụ thể.
Khi nào được áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu?
Theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Loại tình tiết này từng được hướng dẫn tại Văn bản số 07/2017/GĐ-TANDTC như sau:
“Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
– Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.”
Như vậy, có thể thấy đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cần đồng thời thỏa mãn hai yếu tố phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để được xem xét áp dụng trong quá trình xét xử.
Một số tình tiết giảm nhẹ khác ngoài phạm tội lần đầu
Ngoài tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 có liệt kê đầy đủ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác bao gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ