Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Những người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 nếu đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự sẽ phải chịu những hình phạt nhất định của pháp luật. Tuy nhiên, cùng một tội sẽ có những trường hợp mức xử phạt của đối tượng này nhẹ hơn so với đối tượng khác. Sự khác nhau này xảy ra do trong quá trình xét xử, những đối tượng có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ được Tòa án xem xét và giảm nhẹ hình phạt.
Tuy Bộ luật Hình sự 2015 không đưa ra định nghĩa cụ thể về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những quy định về điều kiện, hoàn cảnh, tình huống để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng giảm nhẹ cho người phạm.
Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và Điểm a, Điều b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự 2017 liệt kê một số các tình tiết được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như sau:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, Tòa án có thể coi những tình tiết không thuộc các trường hợp nêu trên là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng bắt buộc phải được ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Ngoài ra, trong trường hợp các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và Điểm a, Điều b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự 2017 là những dấu hiệu để định tội hoặc định khung hình phạt thì không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong khi Toàn án xem xét để ra quyết định hình phạt.
Việc Bộ luật Hình sự 2015 dành một điều luật riêng biệt quy định về những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã thể hiện cách nhìn khoan dung, độ lượng, chính sách giáo dục mang tính nhân đạo, khoan hồng, kết hợp với trừng trị và giáo dục của Nhà nước.