Luật sư phải tố giác thân chủ – Tiền lệ ít xảy ra trên thế giới
Ngày 20/6/2017 vừa qua, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 với tỷ lệ phiếu tán thành trên 88%. Theo Bộ luật Hình sự này, trong một số trường hợp luật sư vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của chính người mà mình bào chữa.
Theo Điều 19 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội không tố giác tội phạm như sau:
- “…Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.
- Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.”
Do đó, so với Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015 có một thay đổi lớn trong khoản 3 Điều 19 BLHS 2015. Trong đó quy định rõ “người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự” khi không tố giác “người mà mình bào chữa”, trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác.
Trong đó, các tội xâm phạm an ninh quốc gia bao gồm 14 tội danh: Tội phản bội Tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội; Tội phá hoại chính sách đoàn kết; Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá rối an ninh; Tội chống phá cơ sở giam giữ; Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân.
Từ ngày 01/01/2018, Luật sư sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác tội phạm đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác (tội giết người, tội hiếp dâm,…). Xung quanh quy định này còn có nhiều ý kiến trái chiều của các chuyên gia pháp luật cũng như dư luận. Tuy nhiên suy cho cùng, về nguyên tắc, với tư cách công dân, người luật sư có nghĩa vụ bình đẳng như mọi công dân khác trong việc tố giác tội phạm.